15 février 2018

Đối diện với một Trung Quốc mới, Việt Nam sẽ phải làm gì?



Trần Văn Thọ

(TBKTSG Xuân AL) - Những xu hướng mới tác động đến kinh tế, chính trị thế giới trong năm 2018 và nhiều năm tiếp theo là gì? Theo tôi xu hướng tác động mạnh nhất sẽ là một nước Trung Quốc mới. Đối với Việt Nam, nằm sát kề bên Trung Quốc, thì tác động đó càng mạnh hơn nữa. Từ 20 năm trước Trung Quốc đã trở thành công xưởng của thế giới, và từ 9, 10 năm trước đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tính theo tỷ giá hiện hành (tính theo sức mua ngang giá PPP thì Trung Quốc đã vượt Mỹ từ năm 2014) nên không có gì mới khi bàn về những mặt đó. Trung Quốc mới ở chỗ các công ty của họ đã trở thành đa quốc gia, thâm nhập mạnh mẽ vào kinh tế, chính trị các nước, và bắt nhịp với các chiến lược mới được phát biểu ở Đại hội toàn quốc lần thứ 19 (tháng 10-2017) của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Trung Quốc đã đề ra chiến lược đối ngoại Một vành đai Một con đường gồm Vành đai đường tơ lụa trên đất liền và Con đường tơ lụa trên biển, nhằm nối kết Trung Quốc với hơn 60 nước châu Á và châu Âu.Ảnh: Kinh Luân



Một Trung Quốc mới đã xuất hiện
Nhật báo Nikkei của Nhật Bản số ra ngày 6-1-2018 giới thiệu trên trang đầu kết quả một nghiên cứu mới về kinh tế châu Á, theo đó, ngoại thương của Nhật và ASEAN sẽ ngày càng phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc và hiệu quả lan tỏa của kinh tế Trung Quốc đến kinh tế các nước châu Á sẽ lớn hơn là Mỹ. Tuy nhiên nghiên cứu cũng cho thấy hiện tượng “Trung Quốc hóa” này có thể gặp rủi ro về chính trị. Eurasia Group, một công ty tư vấn về rủi ro địa chính học, có bản bộ tại New York, vào ngày 2-1-2018 đã công bố danh mục 10 rủi ro lớn nhất năm 2018, trong đó ảnh hưởng của Trung Quốc nằm ở vị trí đầu tiên. Các nghiên cứu và điều tra này cho thấy ảnh hưởng lớn nhưng kèm theo rủi ro của yếu tố Trung Quốc trên kinh tế và chính trị thế giới, nhất là châu Á.
Chiến lược đối phó hữu hiệu và lâu dài nhất là củng cố nội lực. Doanh nghiệp Việt Nam, tư bản dân tộc phải được nuôi dưỡng, được tạo điều kiện lớn mạnh.
Trong lịch sử kinh tế thế giới, những cường quốc kinh tế nổi lên qua các thời đại như Anh, Mỹ, Nhật cũng ảnh hưởng đến kinh tế thế giới nhưng trong những trường hợp đó, ít có nhận định về rủi ro, ít có phân tích về tác động tiêu cực đến kinh tế nước khác. Tại sao Trung Quốc thì khác? Khác vì tính chất đặc thù của nước này. Trong báo cáo chính trị đọc tại Đại hội Đảng tháng 10-2017, Tổng bí thư Tập Cận Bình đã tổng kết tư tưởng của chiến lược phát triển trong giai đoạn tới là “xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc thì đã được nói đến từ lâu nhưng ở đây khái niệm ấy được tăng thêm một nội hàm là thời đại mới. Cũng theo ông Tập, cái mới ở đây là xây dựng Trung Quốc thành một cường quốc xã hội chủ nghĩa theo hướng hiện đại và có ảnh hưởng lớn trên vũ đài quốc tế. Cũng trong báo cáo chính trị ấy, ông Tập đã nhắc lại nhiều lần giấc mơ Trung Quốc là sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa. Tham vọng thành cường quốc, gây ảnh hưởng lớn trên thế giới để phục hưng một thời đại huy hoàng của dân tộc dĩ nhiên sẽ có tác động lớn đến thế giới; nhất là chiến lược đó lại mang màu sắc riêng, đặc tính riêng của Trung Quốc chứ không theo những giá trị phổ quát như trường hợp những nước lớn đã phát triển.
Công ty đa quốc gia Trung Quốc: Những đặc trưng mới trên vũ đài quốc tế
Một công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại theo phương châm lớn nói trên là đẩy mạnh hoạt động đầu tư nước ngoài của doanh nghiệp Trung Quốc. Trong bốn năm năm qua, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã nhanh chóng trở thành các công ty đa quốc gia quan trọng. Những công ty đa quốc gia này mang màu sắc Trung Quốc ở những điểm nào và sẽ tác động đến những nước khác như thế nào?
Trong quá trình cải cách, phát triển, Trung Quốc là nước tiếp nhận nhiều nhất các nguồn vốn và công nghệ từ nước ngoài qua hình thái đầu tư trực tiếp (FDI vào). Nhưng từ khoảng năm 2010, doanh nghiệp Trung Quốc ngày càng ra đầu tư ở nước ngoài (FDI ra). Trước năm 2005 hầu như chưa có dự án nào đáng kể nhưng vào năm 2010, FDI ra đã tăng lên 70 tỉ đô la Mỹ. Đáng chú ý là từ đó tốc độ FDI ra tăng rất nhanh, năm 2016 đã tăng lên tới 183 tỉ, lần đầu tiên vượt quá và vượt xa kim ngạch FDI vào (134 tỉ đô la Mỹ), đánh dấu một bước ngoặt lớn trong kinh tế đối ngoại Trung Quốc. Trung Quốc trở thành nước FDI ra lớn thứ hai trên thế giới vào năm 2016.
Cùng với tư bản của Mỹ, Tây Âu và Nhật, doanh nghiệp Trung Quốc đã trở thành những công ty đa quốc gia (MNC) quan trọng. Nhưng khác với những MNC từ các nước tư bản tiên tiến, MNC của Trung Quốc có một số đặc trưng như sau:
Thứ nhất, lịch sử hình thành các doanh nghiệp này rất ngắn, nhất là thời gian hoạt động trong kinh tế thị trường chưa đủ dài để xác lập hệ thống quản trị doanh nghiệp (corporate governance) và văn hóa kinh doanh. Trên thực tế, trong 100 MNC lớn nhất của Trung Quốc thì có tới 81 là doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp cổ phần nhưng nhà nước chi phối. Khi văn hóa kinh doanh và hệ thống quản trị doanh nghiệp chưa được xác lập mà đầu tư ồ ạt ra nước ngoài sẽ dễ gây xung đột với quyền lợi ở nước sở tại, dễ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, đến các quan hệ về văn hóa, xã hội.
Thứ hai, vì nhiều doanh nghiệp chưa tích lũy nguồn lực kinh doanh như công nghệ, tri thức quản lý, cho đến nay hình thức FDI ra nước ngoài chính của họ là mua bán và sáp nhập (M&A). Đây là hình thái thâm nhập, sở hữu kinh doanh nhanh chóng nhất ở thị trường nước ngoài. Số dự án M&A năm 2016 tăng gấp 2,5 lần so với năm trước.
Thứ ba, gần đây, nhất là từ tháng 10-2017 (Đại hội lần thứ 19), Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra chủ trương tăng cường sự lãnh đạo, kiểm soát đối với mọi mặt của kinh tế, xã hội, văn hóa, trong đó có hoạt động của doanh nghiệp. Theo đó, nhiều doanh nghiệp đã thay đổi điều lệ, ghi thêm sự chấp nhận để cho Đảng Cộng sản can dự vào các quyết định kinh doanh. Do đó trong hoạt động đầu tư nước ngoài của doanh nghiệp Trung Quốc, có thể có nhiều trường hợp không chú trọng mục đích kinh tế mà để phục vụ cho các mục tiêu khác do Đảng hoặc nhà nước Trung Quốc chủ trương.
Những nước lớn, mạnh và ở xa Trung Quốc như Mỹ, Nhật mà phải cảnh giác và tăng cường cơ chế pháp lý để giữ an ninh quốc gia, bảo vệ lợi ích đất nước, Việt Nam nhỏ, yếu lại nằm sát nách Trung Quốc thì sự cảnh giác phải lớn hơn gấp bội.
Thứ tư, hoạt động của doanh nghiệp Trung Quốc ở nước ngoài gắn kết mật thiết với chính sách cho vay hoặc viện trợ của chính phủ. Trung Quốc đã trở thành nước cung cấp ODA (viện trợ và cho vay lãi suất ưu đãi) lớn nhưng chưa gia nhập Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nên không phải thực hiện quy định không được ràng buộc khi cho vay (untied loan). Do đó, ODA của Trung Quốc hầu hết là ràng buộc (tied loan), nghĩa là họ buộc nước vay vốn xây dựng hạ tầng chẳng hạn phải để cho doanh nghiệp Trung Quốc nhận thầu xây dựng. Do đó hoạt động đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp Trung Quốc đang diễn ra rất sôi nổi. Kim ngạch ký kết xây dựng các công trình nước ngoài của họ đã tăng từ 77 tỉ năm 2010 lên 160 tỉ đô la Mỹ năm 2016. Khuynh hướng này là kết quả khởi đầu của chiến lược đối ngoại Một vành đai Một con đường gồm Vành đai đường tơ lụa trên đất liền và Con đường tơ lụa trên biển, nhằm nối kết Trung Quốc với hơn 60 nước châu Á và châu Âu.
Chiến lược này đã được phát biểu vào năm 2013. Trong báo cáo chính trị đọc tại Đại hội Đảng tháng 10-2017, Một vành đai Một con đường được nhắc đến 5 lần và sau đó được ghi vào điều lệ của Đảng Cộng sản cho thấy quyết tâm thực hiện của lãnh đạo Trung Quốc. Trọng tâm của chiến lược này là xây dựng hạ tầng, nhất là đường sắt và cảng biển để nối kết Trung Quốc với các nước nhưng chủ đích là tạo thị trường đầu tư cho doanh nghiệp, xuất khẩu sản phẩm dư thừa như sắt thép, thiết bị, và cho các nước liên quan vay vốn. Để cung cấp vốn, huy động vốn cho mục đích đó, Trung Quốc đã thiết lập Ngân hàng Đầu tư hạ tầng châu Á (AIIB) năm 2013 và Quỹ Đường tơ lụa (Silk Road Fund) năm 2014.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc với những nội hàm mới như phân tích ở trên đang gây ra các va chạm và cảnh giác tại nhiều nước. Do vay mượn nhiều của Trung Quốc, nhiều nước đã lâm vào tình trạng không trả nợ được. Có trường hợp phải xin Trung Quốc xóa một phần nợ và để đổi lại phải ủng hộ Trung Quốc trong các hội nghị về biển Đông hoặc chuyển nhượng cho Trung Quốc quyền sở hữu một số cơ sở kinh tế. Ngay cả những nước tiên tiến hàng đầu như Mỹ, Nhật đã bắt đầu đưa ra các biện pháp, ban hành các luật mới nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc. Đặc biệt chiến lược đầu tư, M&A của doanh nghiệp Trung Quốc đang thu hút sự quan tâm của các nước. Tại các nước tiên tiến, chiến lược đó nhằm nắm bắt, sở hữu thành quả công nghệ, kỹ thuật cao đã tích lũy tại các doanh nghiệp họ muốn mua và sáp nhập. Gần đây Quốc hội Mỹ đã soạn thảo nhiều luật liên quan đầu tư từ nước ngoài và có quy định đặc biệt thẩm tra kỹ các dự án đến từ Trung Quốc để tránh trường hợp bí quyết về công nghệ hoặc thông tin về an ninh quốc gia được chuyển về Trung Quốc. Chẳng hạn, năm 2007, Mỹ ban hành Luật Đầu tư nước ngoài và Bảo vệ an ninh quốc gia (FINSA), theo đó tổng thống có thể phát lệnh ngưng dự án đầu tư xét thấy nguy hại cho an ninh quốc gia. Khi xét thấy cần thẩm tra, tổng thống ủy thác việc đó cho Ủy ban Đầu tư nước ngoài (CFIUS). Theo công bố của CFIUS, từ năm 2012-2014, CFIUS đã thẩm tra 368 dự án FDI của 34 nước đến Mỹ đầu tư, trong đó riêng Trung Quốc đã chiếm tới 68 dự án, là nước có dự án nhiều nhất phải qua thẩm tra của CFIUS. Tháng 9-2014, Mỹ bàn việc chỉnh sửa FINSA để tăng quyền hạn của CFIUS nhằm đối phó với Trung Quốc. Tháng 6-2017, Quốc hội Mỹ đưa ra dự thảo Luật Cải thiện việc thẩm tra rủi ro đối với các dự án FDI, trong đó quy định sự cần thiết phải thẩm tra xuất xứ quốc gia của các dự án. Rõ ràng dự thảo có mục đích nhắm vào Trung Quốc.
Tại Nhật, năm 2017 cũng có quyết định sửa đổi Luật Tiếp nhận FDI trong đó tăng cường thẩm tra các dự án khả nghi đề phòng công nghệ mũi nhọn bị di chuyển ra nước ngoài. Ở đây có yếu tố Trung Quốc đằng sau quyết định ấy.

Ảnh: Mai Lương
Việt Nam sẽ phải làm gì?
Những nước lớn, mạnh và ở xa Trung Quốc như Mỹ, Nhật mà phải cảnh giác và tăng cường cơ chế pháp lý để giữ an ninh quốc gia, bảo vệ lợi ích đất nước, Việt Nam nhỏ, yếu lại nằm sát nách Trung Quốc thì sự cảnh giác phải lớn hơn gấp bội.
Từ khi gia nhập WTO (2007), Việt Nam có khuynh hướng mở toang cửa cho nước ngoài đến đầu tư. Thêm vào đó là chủ trương phân quyền đến các địa phương và các địa phương lại cạnh tranh nhau trong việc thu hút FDI. Nhiều nơi năng lực thẩm định dự án của quan chức có giới hạn, không kể các trường hợp thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc bị nước ngoài mua chuộc. Kết quả là nhiều dự án FDI chất lượng thấp, có trường hợp ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
Về quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam đang tùy thuộc khá mạnh vào nước này. Gần 30% nhập khẩu của Việt Nam là từ Trung Quốc (năm 2016), trong đó rất nhiều mặt hàng là công nghiệp phụ trợ có hàm lượng công nghệ cao. Về lĩnh vực xây dựng không có thống kê cụ thể nhưng tổng hợp các thông tin có thể biết được là tỷ lệ thắng thầu của Trung Quốc rất cao, có thể lên đến 80%. Về FDI, kim ngạch vốn đăng ký lũy kế đến cuối năm 2017 cho thấy Trung Quốc xếp thứ 8. Nhưng mấy năm gần đây FDI từ Trung Quốc tăng rất nhanh, riêng năm 2017, Trung Quốc xếp thứ tư trong những nước đầu tư nhiều nhất tại nước ta. Một điểm cần lưu ý là thống kê về xuất xứ của các dự án FDI không phản ảnh hết thực chất sự hiện diện của một nước cụ thể. Chẳng hạn công ty con của doanh nghiệp Trung Quốc tại Singapore chẳng hạn đầu tư ở Việt Nam thì được kể là đầu tư từ Singapore chứ không phải từ Trung Quốc. Hoặc công ty con của Trung Quốc tại Việt Nam mua bán, sáp nhập một công ty của Việt Nam thì sự giao dịch đó được xem là nội bộ giữa hai công ty của Việt Nam. Những thiên đường thuế như British Virgin hay Cayman chiếm tỷ lệ đáng kể trong kim ngạch FDI tại Việt Nam, trong đó chắc chắn có nhiều dự án của doanh nghiệp Trung Quốc.
Trong thời đại hội nhập, quan hệ kinh tế giữa các nước ngày càng phức tạp. Thêm vào đó, phải đối diện với một nước Trung Quốc mới, Việt Nam dễ bị thua thiệt, thậm chí mất ổn định về kinh tế và từ đó an ninh về chính trị cũng bị ảnh hưởng. Theo tôi cần nhanh chóng rà soát lại các chính sách kinh tế đối ngoại như thu hút FDI, quy định đấu thầu, quy định chặt chẽ về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước... Nên nghiên cứu ban hành các luật mới hoặc bổ sung bằng các điều lệ, các quyết định nhằm ngăn chặn các dự án FDI hay các vụ đấu thầu có ảnh hưởng đến an ninh kinh tế hay chính trị. Luật lệ hay quyết định thì áp dụng chung cho tất cả các nước có quan hệ nhưng khi soạn thảo nội dung cần ý thức đến sự hiện diện của một nước Trung Quốc mới. Cần nhấn mạnh một điểm nữa là chiến lược đối phó hữu hiệu và lâu dài nhất là củng cố nội lực. Doanh nghiệp Việt Nam, tư bản dân tộc phải được nuôi dưỡng, được tạo điều kiện lớn mạnh. Mở cửa, hội nhập phải thực hiện từng bước, đồng tốc độ với sự lớn mạnh của doanh nghiệp trong nước. Lập đặc khu kinh tế, cho doanh nghiệp nước ngoài thuê đất cả 100 năm, hay cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chỉ để thoái được vốn mà không quan tâm đến khả năng chi phối của doanh nghiệp nước ngoài thì không phải là chính sách khôn ngoan trong thời đại hiện nay.